Rất nhiều người Mỹ tin rằng việc sử dụng Ginkgo biloba có thể giúp ngăn chặn tiến triển của bệnh Alzheimer. Tuy nhiên kết quả từ các thử nghiệm lâm sàng mở rộng đã khẳng định sự thất bại trong sử dụng Ginkgo để phòng bệnh này.
Thử nghiệm được tiến hành bởi Thạc sỹ Y khoa Steven DeKosKy thuộc trường đại học Virgnia – một nhà khoa học hàng đầu về bệnh Alzheimer và được thực hiện ở 5 học viện Y khoa của nước Mỹ. Nghiên cứu bao gồm hơn 3000 tình nguyện viên là những người dân từ 75 tuổi trở lên với nhận thức bình thường hoặc suy giảm nhận thức nhẹ. Sử dụng thiết kế nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có kiểm chứng bằng giả dược.
Thử nghiệm được tiến hành bởi Thạc sỹ Y khoa Steven DeKosKy thuộc trường đại học Virgnia – một nhà khoa học hàng đầu về bệnh Alzheimer và được thực hiện ở 5 học viện Y khoa của nước Mỹ. Nghiên cứu bao gồm hơn 3000 tình nguyện viên là những người dân từ 75 tuổi trở lên với nhận thức bình thường hoặc suy giảm nhận thức nhẹ. Sử dụng thiết kế nghiên cứu ngẫu nhiên, mù đôi, có kiểm chứng bằng giả dược.
Một nửa số đối tượng nghiên cứu được uống 120mg gingko 2 lần/ngày, một nửa kia uống giá dược 2 lần/ngày; các đối tượng nghiên cứu được đánh giá về sa sút trí tuệ 6 tháng một lần và trong vòng 6 năm. Sau 6 năm, 523 đối tượng nghiên cứu có tăng sa sút trí tuệ, trong đó 277 đối tượng thuộc nhóm uống ginkgo và 246 đối tượng thuộc nhóm dùng giả dược. Hơn nữa khi xem xét tìm kiếm tác dụng phòng bệnh của ginkgo đối với bệnh Alzheimer các loại sa sút trí tuệ khác- Các nhà khoa học đã thực sự thất bại.
Nghiên cứu này đã được đăng trên Tập san của Hiệp hội Y tế Mỹ vào 19/11/2008.
Một điểm mạnh của nghiên cứu là ginkgo biloba được chiết xuất trong thử nghiệm đạt được công thức chuẩn với các số lượng cụ thể của các thành phần hoạt hóa. Điểm yếu của nghiên cứu này là chỉ có các đối tượng nghiên cứu độ tuổi từ 75 trở lên – Vì vậy vẫn có khả năng nếu đối tượng nghiên cứu được dùng ginkgo sớm hơn trong cuộc đời của họ thì có thể sẽ có tác dụng phòng bệnh Alzheimer, Dekosky và cộng sự đã nhấn mạnh.
Thậm chí ngay cả khi không ở trong trường hợp này thì ginkgo vẫn có thể ngăn chặn tốt các triệu chứng của Alzheimer. Thạc sỹ Y khoa Hyla Cass – chuyên gia về tâm thần học tại Pacific Palisades – Califormia và là một chuyên gia về lựa chọn và bổ sung thuốc đã phát biểu trên T/c Tin tức TTH: Có những dữ liệu thuyết phục cho thấy hiệu quả của ginkgo trong điều trị các triệu trứng của sa sút trí tuệ.
Trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi có kiểm chứng bằng giả dược – ginkgo được xem có tác dụng tương tự như Donepezil trong điều trị Alzheimer. Donepezil là một trong những thuốc được FDA chỉ định cho bệnh Alzheimer.
Tiến sỹ Cass nhấn mạnh các thử nghiệm lâm sàng cho thấy ginko có thể cải thiện sự tập trung chú ý, trí nhớ, và tốc độ nhận thức ở người không có suy giảm nhận thức. Vì vậy thậm chí nếu ginkgo không thể làm chậm sự phát triển của Alzheimer thì nó cũng tăng cường các quá trình hoạt động thần kinh ở người bình thường.
Trong khi đó những tin tức đáng mừng trong việc phòng bệnh sớm Alzheimer được các nhà khoa học Na uy đăng tải trên Tập san Quốc tế về TTH người già tháng 11/2008 rằng giáo dục có thể bù đắp cho những người khuyết tật gen đối với bệnh Alzheimer. Nghiên cứu được thực hiện bởi tiến sỹ SufrilSando – một chuyên gia tư vấn về thần kinh học tại bệnh viện St. OLav’s ở Trondheim.
Giáo dục có thể bảo vệ chống lại Alzheimer, một số nghiên cứu trước đây đã cho thấy Apolipoprotein E (APOE) biến thể của gen e4 đã được chứng minh rõ là một trong những yếu tố nguy cơ của bệnh Alzheimer. Sando và cộng sự đã nghiên cứu thấy các mức độ giáo dục đạt được có thể sẽ bù lại bất kỳ tổn thương biến thể gen e4 nào gây ra bệnh Alzheimer.
Những nghiên cứu lâm sàng có đối chứng bao gồm 373 nghiệm thể bị Alzheimer và 559 đối tượng khỏe mạnh. Họ được định lượng các loại biến thể gen APOE và không lấy làm lạ là đã tìm thấy: những người có biến thể gen e4 có nguy cơ bị Alzheimer gấp 4,4 lần so với những người không có gen này, và những người có 2 biến thể gen e4 có nguy cơ bị Alzheimer gấp 13,1 lần so với những người không có gen này.
Thậm chí trong các đối tượng có 1 hoặc 2 biến thể gen e4, những đối tượng được giáo dục ở mức độ cao hơn (9-10 năm) sẽ có ít nguy cơ mắc bệnh Alzheimer hơn những đối tượng được giáo dục ở mức độ thấp (6-7 năm).
Mức độ phòng bệnh được xem như phụ thuộc vào cách thức và quá trình giáo dục: 10-18 năm giáo dục có tác dụng phòng bệnh tốt hơn những người có 8-9 năm giáo dục, do đó thậm chí nếu biến thể APOE e4 có xuất hiện việc giáo dục lâu dài có thể phòng được Alzheimer – Sando và cộng sự kết luận.
Giáo dục có thể có tác dụng phòng bệnh một cách trực tiếp, những bộ não có trải nghiệm giáo dục có khả năng chống lại bệnh lý về não tốt hơn những bộ não ít trải nghiệm giáo dục hoặc nó có thể do vài yếu tố bảo vệ khác như: dinh dưỡng tốt hoặc điều kiện kinh tế xã hội tốt trong thời niên thiếu.
(Theo T/c Tin tức TTH)
BS. Phan Thị Yến
(Bệnh viện Tâm thần Hải Phòng)
BS. Phan Thị Yến
(Bệnh viện Tâm thần Hải Phòng)