PROPRANOLOL KẾT HỢP VỚI LIỆU PHÁP KÍCH HOẠT LẠI CÓ THỂ LÀM GIẢM TRIỆU CHỨNG PTSD

Đây là một bước đột phá to lớn trong điều trị rối loạn stress sau sang chấn (PTSD) nếu bệnh nhân có thể tự thoát khỏi những hồi ức đau thương không mong muốn. Các nhà nghiên cứu và bác sĩ từng tin rằng giảm những hồi ức có thể là một nhiệm vụ không thể; tuy nhiên, các nghiên cứu trong thập kỷ qua đã phát hiện ra rằng khi các hồi ức được hồi tưởng lại, hoặc được kích hoạt lại, ở trạng thái dễ tác động. Khi một người dừng suy nghĩ về hồi ức, hồi ức đó sẽ ổn định, một quá trình được gọi là tái hợp nhất.

Một loại thuốc cản trở việc tái hiện một hồi ức được kích hoạt lại có thể làm suy yếu hoặc thậm chí xóa đi những hồi ức được nhớ lại. Một nghiên cứu được công bố ngày 12 tháng 1 trong AJP ở Advance cho thấy rằng ức chế beta- propranolol có thể ngăn chặn sự tái hiện hồi ức.

Người lớn với PTSD, chủ động nhớ lại sự kiện đau thương của họ dưới ảnh hưởng của propranolol mỗi tuần một lần, trong tối đa sáu tuần, báo cáo giảm đáng kể các triệu chứng PTSD so với những người tham gia dùng giả dược.

“Các chỉ số hiệu quả thu được cho propranolol trước khi tái kích hoạt trong nghiên cứu so sánh tốt với những điều trị có bằng chứng khác, là liệu pháp nhận thức hành vi, cũng như SSRIs”. Alain Brunet, Tiến sĩ- Phó giáo sư tâm thần học tại Đại học McGill, Montreal, và các đồng nghiệp đã viết. “Nếu những kết quả này được nhân rộng trong các nghiên cứu tiếp theo, propranolol có thể trở thành một liệu pháp mới cho một số bệnh nhân bị PTSD”.

Trong nghiên cứu mù đôi, ngẫu nhiên,bệnh nhân PTSD ít nhất 6 tháng, được điều trị 6 tuần với propranolol (dùng 0,67 mg / kg propranolol tác dụng ngắn cộng với 1,0 mg / kg của propranolol tác dụng kéo dài) hoặc giả dược một giờ trước một phiên tái kích hoạt bộ nhớ ngắn.

Bệnh nhân bị loại khỏi thử nghiệm nếu họ có huyết áp tâm thu <100 mmHg; nhịp tim <55 nhịp mỗi phút; là chống chỉ định của propranolol hoặc có khả năng gây nhiễu các kết quả, chẳng hạn như rối loạn nhịp tim hoặc suy tim sung huyết; hoặc hiện đang sử dụng thuốc có thể tương tác nghịch với propranolol, chẳng hạn như thuốc chống loạn nhịp hoặc thuốc chẹn kênh canxi. Ba người trong mỗi nhóm báo cáo tác dụng phụ sau khi nhận giả dược hoặc propranolol và được loại trừ khỏi phần còn lại của thử nghiệm.

Trong các đợt tái kích hoạt, những người tham gia được yêu cầu viết một câu chuyện chấn thương một trang, tập trung vào những khoảnh khắc đáng lo ngại nhất của sự kiện gây đau khổ và bao gồm năm hoặc nhiều cảm giác cơ thể khi đó. Những người tham gia sau đó được yêu cầu đọc to câu chuyện một lần cho chuyên gia trị liệu “như thể họ đã trở lại trong sự kiện này”.

Vào những lần khám hàng tuần tiếp theo, những người tham gia lại uống propranolol hoặc giả dược và được yêu cầu đọc lại câu chuyện 90 phút sau khi uống thuốc.

Những người tham gia điền vào thang điểm PCL-S ở đầu mỗi buổi điều trị, trước khi dùng propranolol hoặc giả dược. Thang điểm CAPS cũng được sử dụng một tuần trước và một tuần sau 6 tuần nghiên cứu.

Cả nhóm propranolol và giả dược đều có điểm số PCL-S và CAPS tương tự tại thời điểm ban đầu. Vào cuối nghiên cứu, những người dùng propranolol có mức giảm lớn hơn trong cả 2 tháng và có ý nghĩa thống kê. Các cải thiện trước – sau trên CAPS là 38% ở nhóm propranolol và 24% ở nhóm giả dược, trong khi PCL-S cải thiện 56% ở nhóm propranolol và 15% ở nhóm giả dược.

Các nhà nghiên cứu cũng tiến hành theo dõi 6 tháng và thấy rằng những người tham gia nhóm propranolol tiếp tục có điểm số triệu chứng thấp hơn nhóm giả dược, thậm chí không tiếp tục sử dụng propranolol. Tuy nhiên, các tác giả lưu ý rằng dữ liệu tiếp theo chỉ bao gồm 14 người tham gia. “Các nghiên cứu sâu hơn nên nỗ lực để duy trì tỷ lệ người tham gia lâu dài hơn để theo dõi lâu dài”, các tác giả viết.

Các bệnh nhân trong nghiên cứu này đã trải qua sáng chấn được kích hoạt nhưng không nhận được liệu pháp phơi nhiễm đầy đủ. Phơi nhiễm là phương pháp điều trị PTSD thường được sử dụng nhằm tìm cách dập tắt mối liên kết giữa trí nhớ và hành vi tiêu cực mà nó gợi ra. Trong khi cả hai phương pháp điều trị liên quan đến huấn luyện bệnh nhân để sống lại một sự kiện chấn thương quá khứ theo một cách nào đó, các thành phần phơi nhiễm của liệu pháp kích hoạt lại được lưu giữ tối đa khoảng 25 phút.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *