Thận trọng trước khi dừng thuốc chống trầm cảm trong thời kỳ mang thai

Các yếu tố khác ngoài việc sử dụng thuốc chống trầm cảm trong thời kỳ mang thai dự đoán mạnh mẽ đến trí tuệ và hành vi của trẻ.
Thời kỳ thai và thơ ấu tiếp xúc với trầm cảm của người  mẹ có thể dự đoán có ý nghĩa các vấn đề hành vi của con và có thể có nguy cơ lâu dài cho tâm lý con, báo cáo một nhóm các nhà nghiên cứu Canada Tạp chí Tâm thần học Mỹ tháng mười một.
Trưởng nhóm tác giả Irena Nulman, MD, một giáo sư tại Khoa Nhi , Trường Đại học Toronto và Phó giám đốc của chương trình Motherisk tại bệnh viện nhi ở Toronto, và các đồng nghiệp đã mời một nhóm phụ nữ mang thai để giúp họ tách biệt các hậu quả trầm cảm của người mẹ và những ảnh hưởng của điều trị dược lý của nó. Những phụ nữ  được lựa chọn trong số những người tìm kiếm tư vấn từ chương trình Motherisk về sự an toàn của các thuốc khác nhau khi mang thai, và họ đồng ý để cho phép theo dõi đánh giá của chức năng nhận thức và khả năng hành vi của con mình.

Những đứa trẻ đã được phân loại thành bốn nhóm: Những trẻ có tiếp xúc trước khi sinh với thuốc ức chế tái hấp thu norepinephrine serotonin (SNRI) venlafaxine, nhóm tiếp xúc thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRIs), nhóm mẹ trầm cảm không được điều trị (có mẹ bị trầm cảm  ngưng điều trị thuốc trước khi thụ thai), và những trẻ mẹ không có trầm cảm, khỏe mạnh. Các phụ nữ mang thai không trầm cảm được sử dụng như là một nhóm chứng được gọi là  nguy cơ mẹ (Motherisk) để hỏi về sự tiếp xúc với các thuốc khác ngoài các thuốc chống trầm cảm, chẳng hạn như acetaminophen.
Kết quả nghiên cứu thuần tập bao gồm các con của 62 bà mẹ đã sử dụng venlafaxine trong thời gian mang thai, 62 người đã sử dụng một SSRI (trong đó có 11 phụ nữ sử dụng sertraline, 20 người sử dụng paroxetine, 15 người dùng citalopram, 15 người đã dùng fluoxetine, và 1 người dùng fluvoxamine) , 54 bà mẹ bị trầm cảm không  điều trị, và 62 phụ nữ khỏe mạnh không trầm cảm.
Tại thời điểm đánh giá, các em trong độ tuổi từ 3 đến gần 7 và không có sự khác biệt trong tuổi thai và cân nặng. Thang đánh giá trí thông minh Wechsler cho trẻ mầm non và tiểu học phiên bản 3 được sử dụng để đánh giá trí thông minh của trẻ em, và những vấn đề về hành vi được xác định bởi bảng kiểm hành vi của trẻ  và thang đánh giá của cha mẹ về hành vi của trẻ .
Kết quả của họ chỉ ra rằng con của các bà mẹ bị trầm cảm đã ngừng dùng thuốc chống trầm cảm trước khi mang thai có chỉ số thông minh và tỷ lệ của các vấn đề hành vi tương tự như những người con của bà mẹ venlafaxine hoặc SSRIs trong thời gian mang thai. Chỉ số thông minh thấp hơn ở tất cả các trẻ có mẹ bị trầm cảm được điều trị hay không và vấn đề về hành vi  phần nào phổ biến hơn ở trẻ  có các bà mẹ bị trầm cảm. Khác biệt về chỉ số IQ ở trẻ em đã nghiên cứu là không liên quan đến thuốc chống trầm cảm, mà là bị ảnh hưởng bởi chỉ số thông minh của người mẹ và giới tính của đứa trẻ, với những bé gái có thống kê chỉ số IQ  cao hơn đáng kể trên tất cả các thang đánh giá chỉ số IQ  so với các bé trai.
Điều đó có nghĩa rằng việc điều trị của các bà mẹ bị trầm cảm là không có lợi cho con  của họ? Không phải vậy, từ trẻ em từ cả ba nhóm có mẹ bị trầm cảm có vấn đề  hành vi hơn so với con của những phụ nữ không trầm cảm. Vấn đề hành vi có liên quan với mức độ nghiêm trọng của bệnh trầm cảm của người mẹ không chỉ trong thời kỳ mang thai mà còn trong suốt thời thơ ấu, việc điều trị cho người mẹ có giá trị rõ ràng cho đứa trẻ.
Nulman và các đồng nghiệp lưu ý rằng 80% những người phụ nữ ngưng điều trị thuốc  trong thời kỳ mang thai có một giai đoạn trầm cảm ở năm đầu tiên sau khi sinh, kết quả là họ cho biết hỗ trợ phát hiện trước đó làm nổi bật ý nghĩa tiêu cực của ngưng điều trị thuốc. “Là một nghiên cứu lớn cho thấy trầm cảm sau sinh là một yếu tố nguy cơ suy giảm chức năng nhận thức và cảm xúc ở trẻ em, tầm quan trọng của điều trị trầm cảm người mẹ trong thời kỳ mang thai được đánh giá cao”, họ nói.
Người dịch: BS Nguyễn Hoàng Yến

(Dịch từ Psychiatric News ngày 7/12/2012)

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *