Trầm Cảm và Nguy Cơ Tự Sát

 Trầm Cảm và Nguy Cơ Tự Sát

Trầm Cảm và Nguy Cơ Tự Sát

Trầm cảm là một rối loạn tâm thần phổ biến, đặc trưng bởi sự buồn bã, mất đi hứng thú hoặc khoái cảm, cảm thấy tội lỗi hoặc tự hạ thấp giá trị bản thân, bị rối loạn giấc ngủ hoặc ăn uống và kém tập trung. Hơn 300 triệu người trên thế giới mắc rối loạn trầm cảm.

BSCKII. Nguyễn Thị Ái Vân, Viện Sức khỏe Tâm thần (Bệnh viện Bạch Mai) cho biết: Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp, biểu hiện bằng cảm xúc buồn, mất quan tâm thích thú, giảm năng lượng, cảm giác tội lỗi hoặc đánh giá thấp bản thân, rối loạn giấc ngủ và ăn uống, kém tập trung. Bệnh kéo dài và tái diễn, làm ảnh hưởng đến cuộc sống và chức năng của người bệnh.

Ước tính có hơn 300 triệu người trên thế giới mắc rối loạn trầm cảm, khiến trầm cảm được Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá là yếu tố đơn độc lớn nhất góp phần gây ra tàn tật chung. 85% bệnh nhân ở trong độ tuổi từ 13 đến 18 tuổi. Tuổi khởi phát rối loạn trung bình là 18.

“Tuy nhiên, tỷ lệ người mắc bệnh trên 15 tuổi ngày càng tăng. Với những bệnh lớn tuổi hoặc <11 tuổi tại thời điểm khởi phát rối loạn có tiên lượng tồi tệ hơn”. Cũng theo BS. Vân, nhiều nghiên cứu cho thấy, có khoảng 1 triệu người chết do tự sát mỗi năm, tương đương 3.000 người chết vì tự sát mỗi ngày. Với mỗi một người chết vì tự sát, có khoảng 20 người hoặc nhiều hơn có toan tự sát.

Theo WHO, trầm cảm là nguyên nhân hàng thứ 3 của gánh nặng bệnh tật trên toàn thế giới trong năm 2004 và sẽ chuyển sang vị trí dẫn đầu vào năm 2030. Tỉ lệ tử vong được tiêu chuẩn hóa do tự sát ở bệnh nhân trầm cảm tái diễn là 20,9 ở nam và 27,0 ở nữ, tức là các bệnh nhân nam và nữ mắc trầm cảm có nguy cơ tự sát hoàn thành cao gấp 20,9 và 27 lần so với quần thể dân số chung.

Nguy cơ tử vong sau nhồi máu cơ tim ở các bệnh nhân trầm cảm cũng cao hơn và liên quan đến mức độ trầm cảm. Rối loạn trầm cảm cũng liên quan đến giảm năng suất công việc và tăng nguy cơ nghỉ việc, qua đó gây ra thiệt hại lớn về kinh tế. Trầm cảm gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự bền vững trong tình cảm gia đình, dẫn đến ly thân hoặc ly hôn.

Nguyên Nhân Nào Dẫn Đến Trầm Cảm Tuổi Học Đường?

Trầm cảm ở lứa tuổi học đường có thể do nhiều nguyên nhân. Về mặt sinh học, có thể là do di truyền, thay đổi nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh, thay đổi cấu trúc giải phẫu não bộ hay thay đổi nồng độ hormone.

Nguyên nhân về tâm lý xã hội, theo bác sĩ, có thể trẻ bị áp lực từ cuộc sống, gia đình, xã hội. Bên cạnh đó là sự thay đổi tâm sinh lý của trẻ theo tuổi, ám ảnh bởi những đau thương thời thơ ấu hoặc do lối sống không lành mạnh. Những sự kiện tiêu cực trong đời sống như sự mất mát người thân yêu, cha mẹ ly hôn, chứng kiến tự sát đều có liên quan đến sự khởi phát trầm cảm ở trẻ em. Tuy nhiên, sự khởi phát trầm cảm ở trẻ em không chỉ từ những biến cố lớn mà những sự kiện căng thẳng nhỏ trong đời sống như phải bỏ học, bố mẹ mất việc, gia đình mâu thuẫn, khó khăn tài chính trong gia đình, người thân ốm… cũng có thể gây nên các triệu chứng của trầm cảm.

Ths.BS. Lê Công Thiện, Viện Sức khỏe Tâm thần cho hay: Tương tác gia đình có vai trò quan trọng đối với sự khởi phát triệu chứng trầm cảm. Phong cách giáo dục của cha mẹ đã được xác định là yếu tố chính trong sự điều chỉnh về mặt tâm lý ở trẻ em và trẻ vị thành niên. Hành vi của cha mẹ được nghiên cứu trên hai góc độ: sự ấm áp và kiểm soát. Sự ấm áp có liên quan đến những khía cạnh như sự gắn bó, bày tỏ tình cảm, sự tôn trọng và quan tâm tích cực của cha/mẹ hoặc người chăm sóc chính. Trầm cảm ở trẻ em có liên quan đến nhận thức của chúng về việc được chấp nhận hoặc bị từ chối bởi người chăm sóc.

Ngoài ra, di truyền cũng là yếu tố tăng nguy cơ trầm cảm ở trẻ. Nghiên cứu sinh đôi cho kết quả: Hệ số di truyền của rối loạn trầm cảm điển hình đã được xác định là 40-50% (Sullivan và cộng sự, 2000), trong đó khoảng 40% ở nữ và 30% ở nam (Swayer, 2018). Ths.BS. Công Thiện chia sẻ: Khả năng di truyền ở trẻ nữ bị trầm cảm cao hơn ở trẻ nam. Tỷ lệ trầm cảm ở trẻ sinh đôi cùng trứng là 65-75%, trong khi trẻ sinh đôi khác trứng là 14-19%. Điều đáng chú ý là những cặp bố mẹ bị trầm cảm thì có tỷ lệ con cái mắc trầm cảm tăng gấp 3 đến 4 lần so với những bố mẹ khỏe mạnh. Mức độ phơi nhiễm với trầm cảm trong các giai đoạn trước/sau khi sinh được coi là đặc biệt quan trọng.

Theo lý thuyết monoamine, sự tổng hợp, vận chuyển các thụ thể của các monoamine đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của trầm cảm. Ở bệnh nhân trầm cảm có mức hoạt động của các chất serotonin, dopamine và norepinephrine thấp hơn so với những người bình thường. Stress mạn tính gây ra những thay đổi hai chiều trong hệ thống đáp ứng của hệ thống hạ đồi – tuyến yên – thượng thận (một hệ thống quan trọng trong miễn dịch cơ thể), điều này gây ra các tác động: Tạo ra stress oxy hóa, các cytokine gây viêm làm suy giảm sự tổng hợp của gần như tất cả các monoamine liên quan đến cơ chế bệnh sinh của bệnh trầm cảm; Viêm thần kinh mạn tính gây ra chết của tế bào thần kinh và cản trở việc sản xuất BDNF, dẫn đến sự thoái hóa của các vòng nối tế bào thần kinh liên quan đến điều hòa cảm xúc.

Dấu Hiệu Nhận Biết Rối Loạn Trầm Cảm

Theo bác sĩ Ái Vân, người trầm cảm thường có dấu hiệu:

  • Khí sắc giảm: Biểu hiện là nét mặt của bệnh nhân luôn buồn bã, các nếp nhăn giảm nhiều thậm chí mất hết nếp nhăn. Tình trạng khí sắc giảm rất bền vững do bệnh nhân buồn, bi quan, mất hy vọng.
  • Mất hứng thú hoặc sở thích cho các hoạt động: Người bệnh mất hết các sở thích vốn có trước đây.
  • Mất cảm giác ngon miệng, ăn ít hoặc sút cân: Sự ngon miệng thường bị giảm sút, thậm chí trong các trường hợp nặng bệnh nhân nhịn ăn hoàn toàn.
  • Rối loạn giấc ngủ: Hay gặp nhất trong trầm cảm chủ yếu là mất ngủ, người bệnh thường than phiền khó vào giấc ngủ, ngủ hay tỉnh dậy và khó khăn trong việc tiếp tục ngủ lại hoặc thức dậy sớm hơn bình thường. Một số ít người bệnh ngủ nhiều hơn bình thường.
  • Rối loạn hoạt động tâm thần vận động: Các triệu chứng ức chế vận động nặng nề thường thấy như người bệnh nằm lỳ trên giường cả ngày mà không hoạt động gì.
  • Giảm sút năng lượng: Người bệnh thường than phiền năng lượng bị giảm sút, họ bị kiệt sức và mệt mỏi, gần như không có sức để làm việc gì nữa. Mệt mỏi thường nặng hơn về buổi sáng.
  • Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi: Cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi là rất hay gặp trong giai đoạn trầm cảm chủ yếu. Bệnh nhân cho rằng mình là kẻ vô dụng, không làm nên trò trống gì.
  • Khó suy nghĩ, tập trung hoặc ra quyết định: Nhiều bệnh nhân than phiền khó suy nghĩ, khó tập trung chú ý vào một việc gì đó. Bệnh nhân cũng rất khó khăn khi cần đưa ra quyết định, họ thường phải cân nhắc rất nhiều thời gian với những việc thông thường.

Ngoài ra, bệnh nhân còn có “Ý tưởng hoặc có hành vi tự sát”. Khi người muốn tự sát thường có những biểu hiện như thường xuyên nói về tự tử, chết chóc, bận tâm đến cái chết; tăng cường sử dụng chất gây nghiện; rút lui khỏi bạn bè và gia đình; có những hành động liều lĩnh.

Điều Trị Trầm Cảm

BS. Vân cho biết: Trầm cảm là bệnh có thể chữa khỏi nếu được phát hiện và điều trị kịp thời, đầy đủ. Tùy vào từng trường hợp cụ thể, các bác sĩ sẽ có phác đồ điều trị khác nhau. Phương pháp điều trị có thể gồm liệu pháp hóa dược và liệu pháp tâm lý. Các thuốc chống trầm cảm thường dùng như SSRI, SNRI, TCA, v.v. có tác dụng cải thiện các triệu chứng trầm cảm. Trong một số trường hợp, các liệu pháp tâm lý như liệu pháp nhận thức hành vi (CBT) cũng rất hữu ích trong điều trị trầm cảm.

Để phòng tránh trầm cảm, mọi người cần duy trì một lối sống lành mạnh, tập luyện thể dục đều đặn, duy trì chế độ ăn uống khoa học, tránh căng thẳng, stress. Đặc biệt, cần chú ý đến những thay đổi tâm lý của bản thân và người xung quanh để phát hiện sớm và điều trị kịp thời.

Kênh liên hệ khác!
Gọi ngay cho chúng tôi!
Gọi ngay cho chúng tôi!